A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Ứng dụng dữ liệu dân cư quốc gia góp phần đảm bảo an ninh, an toàn và thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Sự phối hợp, đồng hành của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) với Bộ Công an trong việc triển khai, thực hiện nhiệm vụ Đề án 06 đã đạt được những kết quả quan trọng, tạo thuận lợi cho các ngân hàng, tổ chức trung gian thanh toán cung ứng các sản phẩm, dịch vụ thanh toán an toàn, bảo mật, tiện ích, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, qua đó phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cho đời sống của người dân.

Đề án 06 (Quyết định 06/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030) đóng vai trò tiên phong, dẫn dắt trong thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, góp phần đẩy mạnh phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số.

de-an-06.jpg

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Ngân hàng tích cực triển khai Đề án 06

Nhằm góp phần hiện thực hóa các mục tiêu đề ra tại Đề án 06, ngành Ngân hàng đã vào cuộc rất tích cực, với các hành động cụ thể như: ban hành các quyết định/kế hoạch của ngành; chủ động phối hợp với Bộ Công an và các bộ, ngành, cơ quan liên quan tích cực triển khai các mục tiêu, giải pháp đề ra tại Đề án, chủ động hoàn thiện cơ chế, chính sách...

Mới đây nhất, ngày 6/1/2025, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ký Quyết định số 67/QĐ-NHNN phê duyệt Đề án Chuyển đổi số của NHNN triển khai tiện ích cốt lõi phát triển ngành Ngân hàng, bảo đảm kết nối với Đề án 06 năm 2025 (Quyết định 67), trong đó nêu quan điểm: “Ứng dụng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (CSDLQGvDC), định danh và xác thực điện tử đối với các hoạt động của lĩnh vực ngân hàng, góp phần chuyển đổi số, tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm”.

Mục tiêu tại Quyết định 67 là: Hoàn thành việc kết nối, khai thác CSDLQGvDC trong việc quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng chống rửa tiền của NHNN. 100% dữ liệu khách hàng trong Kho dữ liệu thông tin tín dụng của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) được xác minh thông tin nhận biết khách hàng, kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ thông qua kết nối, khai thác CSDLQGvDC. 100% khách hàng mở tài khoản thanh toán, thẻ ngân hàng, ví điện từ thực hiện giao dịch thanh toán bằng phương thức điện tử tại ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán được xác minh thông tin nhận biết khách hàng, kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ và đối chiếu khớp đúng thông tin sinh trắc học của chủ tài khoản thanh toán, thẻ ngân hàng, ví điện tử (đối với khách hàng là cá nhân), người đại diện hợp pháp (đối với khách hàng là tổ chức) thông qua kết nối, khai thác CSDLQGvDC hoặc/và ứng dụng căn cước công dân/căn cước gắn chip hoặc/và ứng dụng tài khoản định danh và xác thực điện tử (VNeID). Phấn đấu có tối thiểu 10 tổ chức tín dụng (TCTD) triển khai hoặc hoàn thành thử nghiệm ứng dụng dữ liệu dân cư trong đánh giá khách hàng vay để sẵn sàng ký kết hợp đồng hợp tác triển khai khi sẵn sàng về mặt pháp lý.

Trước đó, ngày 2/3/2023, Thống đốc NHNN đã ký ban hành Quyết định số 264/QĐ-NHNN ban hành Kế hoạch năm 2023 của ngành Ngân hàng triển khai Đề án 06. Tiếp đó, ngày 24/4/2023, NHNN đã phối hợp Bộ Công an ký kết Kế hoạch số 01/KHPH-BCA-NHNNVN về triển khai thực hiện các nhiệm vụ tại Đề án 06 (Kế hoạch 01). Năm 2024, Thống đốc NHNN đã ký ban hành Quyết định số 182/QĐ-NHNN về việc ban hành Kế hoạch năm 2024 của ngành Ngân hàng triển khai Đề án 06.

Theo đó, NHNN đã tích cực thực hiện các nhiệm vụ tại Đề án 06 đồng thời phối hợp Bộ Công an triển khai và đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận như:

(i) Ban hành những quy định, văn bản hướng dẫn để hoàn thiện hành lang, cơ sở pháp lý, nổi bật là Luật Căn cước số 26/2023/QH15; Nghị định số 69/2024/NĐ-CP về định danh và xác thực điện tử; Nghị định số 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân của Bộ Công an; Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, Nghị định 52/2024/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), Quyết định 2345/QĐ-NHNN triển khai các giải pháp an toàn, bảo mật trong thanh toán trực tuyến và thanh toán thẻ ngân hàng.. của NHNN;

(ii) Các đơn vị đầu mối được giao nhiệm vụ đã chủ động phối hợp làm sạch, tạo lập kho dữ liệu sạch để giảm thiểu rủi ro tài chính, giao dịch, phòng chống tội phạm, tạo dựng niềm tin với người dân khi sử dụng dịch vụ tài chính số trên môi trường điện tử;

(iii) Ứng dụng công nghệ tiên tiến, áp dụng các giải pháp xác thực thẻ căn cước công dân (CCCD) gắn chip, cập nhật xác thực sinh trắc học trong các giao dịch ngân hàng; làm sạch thông tin dữ liệu khách hàng, ứng dụng CCCD gắn chip, tài khoản định danh điện tử VNeID trong xác minh, nhận biết thông tin khách hàng...

Cụ thể như: NHNN đã triển khai hệ thống kết nối, khai thác CSDLQGvDC cho hệ thống dịch vụ công trực tuyến (cấp chứng thư số) từ tháng 12/2022. Đến nay, hệ thống đã kết nối, khai thác dữ liệu dân cư phục vụ xử lý hơn 1.191 lượt hồ sơ.

Bên cạnh đó, NHNN đã ban hành quyết định công bố danh mục thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý có đủ điều kiện thực hiện dịch vụ công trực tuyến toàn trình để địa phương tổ chức thực hiện thống nhất toàn quốc; đồng thời nâng cấp Cổng dịch vụ công và Một cửa điện tử; cập nhật, bổ sung các tính năng kỹ thuật hệ thống một cửa điện tử của NHNN, cho phép số hóa hồ sơ đề nghị và kết quả xử lý thủ tục hành chính.

Theo Cục Công nghệ thông tin (NHNN), nhiều TCTD, trung gian thanh toán (TGTT) đang phối hợp với C06 (Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội-Bộ Công an) triển khai mở rộng giải pháp xác thực khách hàng qua thẻ CCCD gắn chíp và triển khai giải pháp xác thực khách hàng qua ứng dụng VNeID trong việc mở tài khoản và sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử.

Tính đến hết ngày 11/4/2025, đã có hơn 108,1 triệu hồ sơ khách hàng được đối chiếu sinh trắc học qua thẻ căn cước công dân (CCCD) gắn chíp hoặc ứng dụng VNeID (đạt hơn 92% tổng lượng tài khoản thanh toán cá nhân phát sinh giao dịch trên kênh số); hơn 530 nghìn hồ sơ khách hàng tổ chức đã được đối chiếu thông tin sinh trắc học (đạt 41% tổng số lượng tài khoản thanh toán tổ chức phát sinh giao dịch trên kênh số); khoảng 20,9 triệu khách hàng mở và sử dụng Ví điện tử đã được thu thập, đối chiếu thông tin sinh trắc học với CCCD gắn chip thông qua ứng dụng Ví điện tử (đạt 73,15% tổng số ví điện tử đang hoạt động); 56 tổ chức tín dụng (TCTD) và 39 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (TGTT) đã triển khai thực tế ứng dụng thẻ CCCD gắn chíp qua ứng dụng điện thoại; 60 TCTD đã triển khai thực tế ứng dụng thẻ CCCD gắn chíp qua thiết bị tại quầy; 32 TCTD và 15 TGTT đang triển khai ứng dụng VNeID, trong đó có 18 đơn vị đã triển khai chính thức (gồm 14 TCTD và 4 TGTT).

Để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số ngân hàng, bên cạnh việc ứng dụng CSDLQGvDC, định danh và xác thực điện tử đối với các hoạt động, nghiệp vụ ngân hàng, NHNN không ngừng hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ và thuận lợi cho phát triển TTKDTM, thúc đẩy hoạt động ngân hàng số, ứng dụng công nghệ mới và đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán góp phần tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận nhiều dịch vụ, phương thức thanh toán mới, tiện ích, hiện đại.

Cùng với triển khai Đề án 06, NHNN tiếp tục tổ chức triển khai tích cực các Đề án, Chương trình, Kế hoạch, chính sách nhằm thúc đẩy TTKDTM và hoạt động ngân hàng số nhằm thúc đẩy, tạo thuận lợi cho các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (TCCUDVTT), tổ chức TGTT cung ứng các sản phẩm, dịch vụ thanh toán an toàn, bảo mật, tiện ích; tiếp tục chỉ đạo các TCCUDVTT, tổ chức TGTT triển khai các giải pháp an toàn, bảo mật trong thanh toán trực tuyến, thanh toán thẻ ngân hàng; thực hiện tốt công tác giám sát các hệ thống thanh toán quan trọng và giám sát hoạt động cung ứng dịch vụ TGTT đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán.

Ngoài ra, NHNN khuyến khích các TCTD triển khai chuyển đổi số, kết nối, hợp tác với các ngành, lĩnh vực khác nhau để hình thành và mở rộng hệ sinh thái số, cung ứng sản phẩm dịch vụ lấy khách hàng làm trung tâm, cung cấp trải nghiệm giao dịch liền mạch, cá nhân hóa. Nhiều ngân hàng đã và đang ứng dụng các công nghệ mới (như trí tuệ nhân tạo/học máy, dữ liệu lớn,…) trong các hoạt động nghiệp vụ, phân tích hành vi, nhu cầu, đánh giá khách hàng giúp tối ưu hóa, cá nhân hóa việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ cũng như tự động hóa quy trình, nâng cao hiệu quả hoạt động.

Theo Vụ Thanh toán (NHNN), đến nay, hầu hết dịch vụ ngân hàng cơ bản đã được thực hiện trên kênh số, nhiều ngân hàng đạt tỷ lệ trên 95% giao dịch thực hiện trên kênh số. Hoạt động TTKDTM và ngân hàng số trong những tháng đầu năm 2025 tiếp tục có sự tăng trưởng tích cực.

Cụ thể, trong 3 tháng đầu năm 2025 so với cùng kỳ năm 2024, giao dịch TTKDTM tăng 44,43% về số lượng và 24,34% về giá trị; qua kênh Internet tăng 40,41% về số lượng và 30,56% về giá trị; qua kênh điện thoại di động tăng 39,82% về số lượng và 21,77% về giá trị; giao dịch qua QR Code tăng 81,64% về số lượng và 213,24% về giá trị; qua Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng tăng 9,60% về số lượng và tăng 36,81% về giá trị; qua Hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử tăng 13,53% về số lượng và 2,54% về giá trị.

Đẩy mạnh kết nối dữ liệu chuyên ngành với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư

Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn công tác triển khai Đề án 06 cũng như quá trình số hóa ngân hàng còn phải đối mặt với một số thách thức, đặc biệt liên quan đến công tác bảo đảm an ninh mạng, an toàn, bảo mật hệ thống, khi ngày càng xuất hiện những thủ đoạn giả mạo tinh vi, khó lường của tội phạm.

Thực tế, nhiều người dân vẫn chưa sử dụng VNeID thành thạo và thường xuyên, đặc biệt là nhóm người dùng cao tuổi, người ít sử dụng điện thoại thông minh. Trường hợp người dùng ít sử dụng VNeID hoặc tài khoản chưa đạt định danh mức 2 thì nhóm người này sẽ phải quay lại phương án xác thực sinh trắc học tại quầy, gây phiền hà cho người dân và tăng khối lượng công việc phải xử lý cho giao dịch viên ngân hàng.

Thông tin, dữ liệu về tài khoản thanh toán của người nộp thuế là các thông tin nhạy cảm, đòi hỏi việc xử lý, tổng hợp cẩn thận, đáp ứng quy định về bảo vệ bí mật thông tin khách hàng và bảo vệ dữ liệu cá nhân.

Tại Quyết định 67 nói trên đã đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp mà các đơn vị của NHNN, các NHTM, tổ chức TGTT và các đơn vị của Bộ Công an cần phối hợp triển khai thời gian tới, như:

(i) Tiếp tục thực hiện đối soát theo phương thức ngoại tuyến (offline) với C06 để làm sạch thông tin khách hàng trong kho dữ liệu phòng chống rửa tiền (PCRT); Triển khai kết nối trực tuyến chính thức Hệ thống thông tin PCRT với CSDLQGvDV để khai thác các dịch vụ về xác thực thông tin công dân, dịch vụ xác nhận thông tin hộ gia đình, dịch vụ tra cứu thông tin công dân, dịch vụ gợi ý số định danh cá nhân do C06 cung cấp phục vụ công tác PCRT. Tiếp tục đối soát theo phương thức ngoại tuyến (offline) với C06 để làm sạch thông tin khách hàng trong kho dữ liệu thông tin tín dụng. Triển khai kết nối trực tuyến chính thức hệ thống thông tin tín dụng với CSDLQGvDC phục vụ việc xác thực thông tin khách hàng vay trong cơ sở dữ liệu thông tin tín dụng quốc gia...;

(ii) Ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ TGTT kết nối, khai thác CSDLQGvDC hoặc/và ứng dụng căn cước công dân/căn cước gắn chip hoặc/và ứng dụng VNeID để thực hiện xác minh thông tin nhận biết khách hàng mở tài khoản thanh toán, thẻ ngân hàng, ví điện tử bằng phương thức điện tử, kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ và đối chiếu khớp đúng thông tin sinh trắc học của chủ tài khoản thanh toán, thẻ ngân hàng, ví điện tử (đối với khách hàng là cá nhân), người đại diện hợp pháp (đối với khách hàng là tổ chức);

(iii) Ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ TGTT kết nối, khai thác CSDLQGvDC và/hoặc ứng dụng căn cước công dân/căn cước gắn chip hoặc/và ứng dụng VNeID để bảo đảm khách hàng thực hiện giao dịch thanh toán bằng phương thức điện tử trên tài khoản thanh toán, ví điện tử tuân thủ đúng quy định [1];

(iv) Ứng dụng dữ liệu từ CSDLQGvDC trong đánh giá khách hàng vay của TCTD: Xây dựng, hoàn thiện giải pháp chấm điểm khả tín; Công bố thông tin về giải pháp tới các TCTD để nghiên cứu, xem xét chủ động triển khai theo nhu cầu.

Trên cơ sở các nhiệm vụ, giải pháp trên, NHNN tiếp tục chỉ đạo các TCTD đẩy mạnh làm sạch, xác thực kết nối dữ liệu chuyên ngành với CSDLQGvDC, giảm thiểu tài khoản rác, ví điện tử rác; chỉ đạo các NHTM, TCTD, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, tổ chức TGTT kết nối, cung cấp dữ liệu với cơ quan thuế, tiếp tục nâng cao hiệu quả chống thất thu thuế, nhất là với hoạt động thương mại điện tử. Đồng thời, xây dựng chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đồng bộ với chiến lược xây dựng ứng dụng triển khai Trung tâm dữ liệu quốc gia; chỉ đạo các đơn vị cung ứng dịch vụ tích cực triển khai các giải pháp an toàn, bảo mật trong thanh toán trực tuyến, thanh toán thẻ ngân hàng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng.

Về phía các NHTM, tổ chức cung ứng dịch vụ TGTT cần tiếp tục nâng cấp, hoàn thiện các hạ tầng công nghệ và chú trọng công tác đảm bảo an ninh, an toàn và bảo mật thông tin trong quá trình chuyển đổi số ngân hàng; đẩy mạnh truyền thông, giáo dục tài chính hướng đến người dân vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, người yếu thế, giới trẻ... nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng cho công chúng trong sử dụng sản phẩm, dịch vụ tài chính, ngân hàng trên nền tảng số.

Để VNeID tiếp tục được ứng dụng sâu rộng trong đời sống, các bộ, ngành liên quan cần đẩy mạnh việc tuyên truyền và hướng dẫn khách hàng sử dụng. Các NHTM có thể đóng vai trò cầu nối, tích hợp VNeID vào việc cung cấp sản phẩm dịch vụ và thực hiện thanh toán cho người dân.

Đối với ngành Ngân hàng, hướng đến mục tiêu chuyển đổi số quốc gia, các hoạt động, dịch vụ được thực hiện trên môi trường điện tử, cần có sự hỗ trợ và phối hợp chặt chẽ của các đơn vị nghiệp vụ của các Bộ ngành như Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ Khoa học và công nghệ (hợp nhất Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ Khoa học và Công nghệ)… trong việc giám sát, đảm bảo an ninh, an toàn hệ thống, bảo vệ thông tin dữ liệu khách hàng cũng như trong công tác phòng, chống tội phạm công nghệ cao, lừa đảo trên không gian mạng.

Đồng thời các bộ, ngành cần phối hợp hoàn thiện xây dựng các cơ sở dữ liệu chuyên ngành, phục vụ nâng cấp, cải thiện chất lượng dịch vụ công trực tuyến…

Các đơn vị chức năng của Bộ Công an tiếp tục phối hợp, hướng dẫn các TCTD về căn cứ pháp lý và phương thức phối hợp nhằm phục vụ công tác rà soát đối tượng nghi ngờ, giả mạo giấy tờ với dữ liệu sinh trắc của CCCD phục vụ công tác phòng, chống tội phạm. Bộ Tài chính cần có hướng dẫn chuẩn hoá về dữ liệu, quy định về phương thức kết nối, chia sẻ thông tin của các TCTD cung cấp để đảm bảo đáp ứng việc kết nối, chống thất thu thuế nhưng vẫn bảo vệ được dữ liệu cá nhân.

Chú thích:

[1] Tại điểm c khoản 5 Điều 17 Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 của NHNN quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; khoản 6 Điều 16 Thông tư số 18/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 của Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt động thẻ ngân hàng và điểm c khoản 6 Điều 25 Thông tư số 40/2024/TT-NHNN ngày 17/7/2024 của Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.

 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Tin liên quan
Đang chờ cập nhật
Thời tiết
Thời tiết Hà Nội